Tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (sau đây viết tắt là TNĐCS) được
C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo, hoàn thành trong một thời gian rất ngắn;
được công bố vào ngày 24-2-1848; lần đầu tiên được xuất bản tại Luân
Đôn, ít lâu sau được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng khác nhau ở nhiều
nước trên thế giới. 170 năm qua, kể từ khi TNĐCS ra đời cho đến nay, thế
giới đã có nhiều biến đổi, song lịch sử tiếp tục chứng minh rằng, những
tư tưởng vĩ đại của TNĐCS sẽ tiếp tục soi đường cho nhân loại hướng đến
tương lai ngày càng tốt đẹp hơn.
Những tư tưởng cơ bản trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
1.
TNĐCS khẳng định hai nguyên lý của chủ nghĩa Mác: phương thức sản xuất
và trao đổi kinh tế cùng với cơ cấu xã hội của phương thức đó quyết định
sự hợp thành nền tảng của xã hội; lịch sử phát triển của xã hội có giai
cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
-
Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu
này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai yếu tố đó cấu thành
cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy.
-
Từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã, toàn bộ lịch sử
loài người là lịch sử của đấu tranh giai cấp, qua các giai đoạn của sự
phát triển xã hội, cuộc đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp
bóc lột, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị vẫn không ngừng diễn
ra.
-
Những thay đổi trong phương thức sản xuất và trao đổi qua các thời kỳ
lịch sử đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và đi liền với nó
là thúc đẩy giai cấp tư sản ra đời và ngày càng lớn mạnh.
-
Sự ra đời, phát triển, địa vị lịch sử và sự diệt vong của chủ nghĩa tư
bản và giai cấp tư sản là tất yếu khách quan, do kinh tế quyết định.
-
Chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản ra đời thúc đẩy xã hội phát triển
mạnh mẽ về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa... Tuy nhiên, tính chất
phản động của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản cũng dần dần bộc lộ
công khai, những tệ nạn xã hội do nó gây ra càng phát triển, như: sự bóc
lột tàn nhẫn lao động làm thuê; tuyệt đối hóa lợi ích, tuyệt đối hóa
đồng tiền; chà đạp lên mọi quan hệ gia đình, tình cảm; thúc đẩy các cuộc
chiến tranh xâm lược để mở rộng thị trường.
-
Những mâu thuẫn không thể điều hòa giữa chế độ sở hữu tư nhân tư liệu
sản xuất với sản phẩm mà nó tạo ra là lực lượng sản xuất công nghiệp
hóa, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai
cấp vô sản là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ tư bản.
-
Giai cấp vô sản đại diện cho lực lượng sản xuất mới, là giai cấp tiến
bộ của thời đại sẽ giành được vị trí thống trị. Sự sụp đổ của giai cấp
tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là một tất yếu lịch sử như
nhau và đều do kinh tế quyết định.
2.
TNĐCS khẳng định giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng khỏi tình
trạng bị áp bức, bóc lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn bộ
xã hội khỏi tình trạng bị áp bức, bóc lột, phân chia giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
-
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trên toàn thế giới là thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản - là “người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, xây dựng xã
hội mới - xã hội XHCN, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn giai
cấp.
-
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải do ý muốn chủ quan hay
một sự áp đặt khiên cưỡng, mà do những điều kiện khách quan quy định, đó
là: giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy
nhất cho lợi ích toàn xã hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ
có nó (giai cấp vô sản) mới có tính triệt để cách mạng, tự giải phóng
cho mình và giải phóng cho xã hội.
- Giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
3. TNĐCS công khai trước toàn bộ thế giới về chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản.
Về
con đường, phương pháp tiến hành cách mạng vô sản: TNĐCS vừa khẳng định
tính tất yếu phải tiến hành cách mạng vô sản, nhưng cũng chỉ ra rằng,
không nhất thiết phải sử dụng các biện pháp như nhau và tiến hành nhất
loạt ở tất cả các nước.
+
Với những mâu thuẫn gay gắt không thể điều hòa của chủ nghĩa tư bản,
tiến hành cách mạng là phương thức tất yếu và duy nhất để thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, là tiền đề cần thiết để giải phóng
toàn thể nhân loại cần lao. Cuộc cách mạng vô sản là kết quả của quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động, trải qua nhiều giai đoạn, phát triển từ tự phát đến tự giác, tạo
ra tình thế, chớp lấy thời cơ cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi.
+
Cách mạng vô sản phải trải qua hai bước: (1) Giai cấp vô sản phải tiến
hành cuộc cách mạng chính trị đánh đổ giai cấp tư sản và giành chính
quyền; (2) Sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản là
lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng chính quyền
như một công cụ có hiệu lực nhất để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới.
+
Phương pháp cách mạng: Tiến hành không ngừng, tùy theo yêu cầu, nhiệm
vụ của từng thời điểm và phải tiến hành từng bước để đạt tới mục đích
cuối cùng.
+
Con đường, biện pháp cách mạng phải bằng bạo lực. Đây là kết luận hết
sức đúng đắn của C.Mác và Ph.Ăngghen, là kết quả trực tiếp của quan niệm
duy vật, khoa học về lịch sử mà hai ông là những người đầu tiên vươn
tới và sáng tạo ra.
- Về mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản
+
Giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức
thành chính đảng của giai cấp. Đảng Cộng sản được hình thành và phát
triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Đảng là đội quân
tiên phong của giai cấp vô sản. Đảng đưa vào phong trào công nhân các
tư tưởng cộng sản chủ nghĩa; tổ chức giai cấp vô sản, lãnh đạo cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản và xây dựng xã hội XHCN.
+
Giữa Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ,
không tách rời. Mục đích, lợi ích của Đảng và của giai cấp vô sản là
thống nhất. Đảng là đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản cũng như
của nhân dân lao động.
+
Đảng Cộng sản phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận và nắm bắt
thực tiễn, đủ khả năng lãnh đạo giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao
động đấu tranh thắng lợi trong công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.
- Về giải quyết các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế
+
Mục tiêu, lý tưởng cao nhất của giai cấp vô sản là đi đến xã hội XHCN
và cộng sản chủ nghĩa - nơi con người được giải phóng và được tạo điều
kiện phát triển toàn diện, hài hòa. Để đạt được mục tiêu nhân văn cao cả
đó, những người cộng sản phải giải quyết một cách phù hợp các quan hệ
giữa giai cấp - dân tộc - quốc tế.
+
Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc.
+
Giai cấp vô sản không chỉ đại diện cho lợi ích của từng dân tộc - do
bản chất vốn có của nó - giai cấp vô sản còn đại diện cho lợi ích của
toàn thể nhân loại. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cần và phải thực
hiện dưới ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
4.
TNĐCS đã vạch trần bản chất phản động, bảo thủ, lỗi thời của các trào
lưu tư tưởng phi khoa học, trá hình dưới chiêu bài khác nhau về chủ
nghĩa xã hội để chống chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ. TNĐCS chỉ rõ, tất cả
các trào lưu XHCN phi khoa học (chủ nghĩa xã hội phong kiến, tiểu tư
sản, tư sản, xã hội Đức, xã hội không tưởng) đều là trở ngại cho việc ra
đời của chính Đảng.
Việc
phê phán những trào lưu đó nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá
học thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học vào phong trào công nhân.
Giá trị thời đại và sự vận dụng TNĐCS vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1. Giá trị thời đại
-
TNĐCS đã vạch ra con đường cách mạng vô sản, đưa hàng tỷ quần chúng lao
động, hàng trăm quốc gia dân tộc thoát khỏi thân phận bị bóc lột, áp
bức, nô dịch vươn tới địa vị người làm chủ, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc; biến chủ nghĩa xã hội từ lý luận thành hiện thực sinh động,
mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội; thức tỉnh, cổ vũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
toàn thế giới vùng dậy đấu tranh vì mục tiêu cao cả là hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
-
Dưới ánh sáng và tinh thần của những nguyên lý nền tảng trong TNĐCS,
cho dù mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã bị sụp
đổ vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, song không phải vì thế
mà phong trào đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng cộng sản bị
chặn lại. Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân
sinh, vì tiến bộ và công bằng xã hội đang có những bước tiến mạnh mẽ,
trở thành một phong trào rộng khắp trên quy mô toàn cầu. Giá trị, sức
sống và ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn vẫn tiếp tục được khẳng định ở
các nước XHCN còn lại bằng nhiều thành tựu to lớn, cùng với đó là sự
xuất hiện của các trào lưu XHCN mới tiếp tục xuất hiện ở khắp các châu
lục, thậm chí ngay trong lòng các nước tư bản tư bản chủ nghĩa, càng cho
thấy giá trị lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn trong Tuyên
ngôn.
Thực
tiễn luôn biến đổi, phát triển, những tư tưởng trong TNĐCS nói riêng,
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung cũng không ngừng phát triển để đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn xã hội cũng như tồn tại của chính nó trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
2. Giá trị của TNĐCS đối với cách mạng Việt Nam và sự vận dụng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
-
Tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của TNĐCS nói
riêng là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam. Từ bản Sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin năm
1920 - bản Luận cương phát triển sáng tạo tư tưởng của Tuyên ngôn trong
điều kiện lịch sử mới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước của
dân tộc Việt Nam. Cách mạng Việt Nam càng phát triển, càng khẳng định
những nguyên lý nền tảng của Tuyên ngôn là đúng đắn.
-
Vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp những nguyên lý nền tảng của
TNĐCS, nhất là về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, về cách mạng XHCN, về vị trí, vai trò của Đảng, của giai cấp công
nhân,... vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách, huy động được mọi nguồn lực,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, giành thắng lợi vẻ
vang trong cách mạng dân tộc dân chủ và đang từng bước tiến hành cách
mạng XHCN. Trong suốt quá trình cách mạng, mục đích cao cả của Đảng ta
đặt ra hoàn toàn phù hợp với tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn,
đó là giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách áp bức bóc lột, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
-
Tính khoa học, tính cách mạng của TNĐCS được Đảng ta tiếp thu, vận dụng
sáng tạo, cụ thể thể hiện qua những nội dung Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội và những văn kiện gần đây
của Đảng. Những nội dung lý luận về định hướng XHCN, về mục tiêu, động
lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, về những đặc trưng thể hiện bản chất
của xã hội XHCN và con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế... là thành quả của quá trình đổi mới tư duy, phát triển lý luận
và tổng kết thực tiễn của Đảng, đồng thời đó cũng chính là sự kế thừa,
vận dụng những “tư tưởng cơ bản”, “nguyên lý phổ quát” của Tuyên ngôn.
-
Tư tưởng cơ bản của TNĐCS được vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng XHCN, thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực kinh tế, chính trị
và xây dựng đảng. Cụ thể:
Về
kinh tế, Đảng luôn luôn quán triệt tư tưởng cơ bản của TNĐCS là: “Trong
mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này
tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cải đó cấu thành cơ sở
của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. Vận dụng
quan điểm đó, Đảng ta xác định, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trước hết và trung tâm là xây dựng, phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục, vì mục tiêu phát
triển con người, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Về
chính trị, xuất phát từ các giá trị lý luận về nhà nước và pháp luật
trong TNĐCS và các giá trị phổ quát của nhân loại về xây dựng nhà nước
pháp quyền. Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Về
xây dựng Đảng, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng
là tất yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng; đồng thời khẳng định
vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong
công tác xây dựng Đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo.
Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp - tư tưởng này là cơ sở để
xây dựng đường lối chủ trương, chính sách nhằm xóa bỏ những đặc quyền,
đặc lợi trong Đảng. Trong đường lối cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt
và vận dụng tư tưởng cốt lõi của Tuyên ngôn, coi công tác xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức” là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hơn 30 năm qua, đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng
là đúng đắn, thể hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin nói chung, TNĐCS nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
170
năm trôi qua, kể từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời cho đến
nay, thế giới đã có nhiều biến đổi, song lịch sử tiếp tục chứng minh
rằng, những tư tưởng vĩ đại của TNĐCS sẽ tiếp tục soi đường cho nhân
loại tiến về tương lai ngày càng tốt đẹp hơn. Kỷ niệm 170 năm ra đời
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều
diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, nhìn lại chặng đường cách
mạng của Đảng gần 9 thập kỷ qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử cũng như những hạn chế, yếu kém trong hơn 30 năm đổi
mới đất nước, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn những giá trị bền vững
và ý nghĩa thời đại của TNĐCS; từ đó chủ động, không ngừng vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp những nguyên lý nền tảng của Tuyên ngôn
vào điều kiện cụ thể nước ta để thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo baokhanhhoa.vn