Trưa
ngày 30-4-1975, sự kiện lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc lập
có thể được coi là biểu tượng cao nhất của thắng lợi trong cuộc kháng
chiến trường kỳ hơn 20 năm chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của nhân dân
ta.
Những
người lính trên xe tăng 390 và 843 là lực lượng giải phóng có mặt sớm
nhất ở Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Nguồn ảnh: Bảo tàng Lịch sử quân sự
Với
mốc lịch sử đó, dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi 30 năm chiến đấu giành
độc lập, tự do, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước kể từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945.
Đã
42 năm qua đi kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, người Việt Nam ở trong
nước và nước ngoài đều thấy rõ một thời kỳ mới đã bắt đầu từ ngay sau
Ngày Chiến thắng 30-4-1975 và những kết quả Việt Nam đạt được.
Thắng lợi đầu tiên là thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước và nhanh chóng thống nhất các lĩnh vực, các vấn đề do cuộc chia cắt trước đó đặt ra.
Thắng
lợi thứ hai là Việt Nam đã vượt qua được khó khăn, đặc biệt là từ năm
1986 đi vào công cuộc đổi mới, đưa nền kinh tế đất nước từng bước đi lên
và nhanh chóng thay đổi chuyển biến từ tích cực đến đột phá, cả về cơ
cấu nền kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu đầu tư, đi vào phát triển ổn
định và bền vững để vững vàng hội nhập quốc tế.
Thắng
lợi thứ ba là nền chính trị và chế độ chính trị vẫn được giữ vững,
nhanh chóng vượt qua khó khăn phức tạp, làm chủ tình hình; không xảy ra
bạo động phản loạn; chính quyền từ Trung ương đến địa phương luôn làm
chủ tình hình trong mọi hoàn cảnh.
Thắng
lợi thứ tư là từ khi đổi mới, tốc độ đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật
của Trung ương, các địa phương, mỗi đơn vị, cơ quan, thậm chí mỗi gia
đình đều trở thành ưu tiên số 1; bộ mặt xã hội cả thành thị, nông thôn,
miền xuôi, miền ngược ngày càng trở nên khang trang, phát triển không
thua kém các nước trong khu vực.
Thắng
lợi thứ năm là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, xây dựng mô
hình đổi mới ở Việt Nam không chỉ chắc chắn và ổn định, mà còn định vị
một con đường phát triển bền vững - thành mô hình Việt Nam, hiện tượng
Việt Nam.
Thắng
lợi thứ sáu là thực hiện ngoại giao đa phương, làm bạn với tất cả các
nước không phân biệt hệ thống chính trị; giữ vững độc lập tự chủ; uy tín
và vị thế đất nước ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế và khu
vực, là quốc gia đáng tin cậy, trung thành với bạn bè, anh em.
Thắng
lợi thứ bảy là thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc theo chủ trương và
mục đích cao nhất là đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất
nước, vượt qua những hạn chế do thời cuộc sau chiến tranh lâu dài, đề ra
chính sách và biện pháp phù hợp, từng bước đáp ứng tâm tư, nguyện vọng
của đồng bào trong nước và ở nước ngoài…
Thắng
lợi thứ tám là thực hiện nghĩa vụ quốc tế và khôi phục quan hệ láng
giềng thân thiện sau chiến tranh; thực hiện chính sách ngoại giao rộng
mở và độc lập tự chủ, nhất quán chính sách và biện pháp hòa bình trong
giải quyết mâu thuẫn, biến chiến trường thành thị trường; thực hiện quan
hệ láng giềng thân thiện và hữu nghị với các quốc gia chung biên giới
đất liền và các quốc gia chung Biển Đông.
Thắng
lợi thứ chín là giữ vững chính nghĩa trong đấu tranh kiên quyết với các
thế lực xâm lược và thù địch; xây dựng đường biên giới trên đất liền
với các nước láng giềng, đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo với các
nước có tranh chấp; không theo liên minh này chống liên minh khác, không
có căn cứ quân sự nước ngoài trên đất nước Việt Nam.
Thắng
lợi thứ mười là tích cực chủ động hội nhập quốc tế, tham gia các tổ
chức quốc tế và Liên Hợp Quốc, tham gia các công việc quốc tế trong khả
năng và khuôn khổ Hiến pháp, thực hiện nhiều chính sách tiến bộ và ưu
việt như: Xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, tiêm chủng mở rộng, nhà tình
nghĩa, mô hình phát triển kinh tế, chương trình lương thực, chương trình
trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái...
Trong
quá trình đi đến thắng lợi to lớn ấy, nhân dân Việt Nam phải trải qua
biết bao hy sinh, gian khổ và chúng ta cũng thấy rõ một điều: Tiến trình
phát triển không chỉ có toàn thắng lợi.
Chúng
ta vẫn nhớ những khó khăn của “đêm trước đổi mới” với cung cách quản lý
thời quan liêu bao cấp kéo dài suốt 10 năm sau chiến tranh (1975-1985);
nhiều năm đất nước bị bao vây cấm vận và bị cô lập về ngoại giao; có
nhiều lực lượng thù địch tìm cách “chuyển lửa về quê nhà” để chống phá
cách mạng...
Nhắc
lại điều này để thấy chữ “Thắng” trong thời bình cũng như chữ “Thắng”
trong thời chiến đều có giá của nó, để ta càng trân quý những gì đã và
đang có trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hôm nay.
Theo chinhphu.vn